Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Sỏi mật và những biến chứng của bệnh

Hiện nay nhờ những tiến bộ của  y học nên chẩn đoán và điều trị  có nhiều thuận lợi. Sỏi mật có  hai loại chính: sỏi cholesterol và sỏi sắc tố mật, trong sỏi sắc tố  bao gồm sỏi màu đen và sỏi màu nâu. Ở châu âu và Mỹ, phần lớn là sỏi cholesterol, sỏi chủ yếu nằm trong túi mật.

Ở Việt Nam trước kia chủ yếu là sỏi sắc tố mật, sỏi chủ yếu nằm ở trong gan và ống mật chủ gây nhiễm khuẩn đường mật, còn sỏi túi mật chỉ chiếm 5-10%, ngày nay sỏi túi mật tăng cao  chiếm tới 50% trường hợp sỏi mật, đồng thời tỷ lệ sỏi cholesterol cũng tăng cao. Sự phân bố loại sỏi mật trên thế giới phụ thuộc vào chủng tộc và chế độ ăn.
Vì sao có sỏi trong mật?
Bệnh sỏi mật phát triển ở tuổi 20-50, càng nhiều tuổi  càng dễ bị sỏi mật.  Bệnh thường gặp ở nữ giới, tỷ lệ mắc bệnh ở nữ cao hơn từ 4-6 lần so với nam giới.
Các yếu tố thuận lợi tạo sỏi cholesterol là chế độ ăn nhiều chất béo và cholesterrol; dùng thuốc: estrogen, thuốc clofibrate để tăng đào thải  cholesterol; bệnh ở đoạn cuối của ruột non; xơ gan; cắt dạ dày; giảm co bóp của túi mật: như dùng thuốc octretide kéo dài, nuôi dưỡng  lâu dài bằng đường tĩnh mạch.
Các yếu tố thuận lợi cho hình thành sỏi sắc tố mật như nhiễm khuẩn đường mật, ở Việt Nam hay gặp  nhiễm khuẩn đường mật do giun chui từ ruột lên đường mật.
Biểu hiện lâm sàng
Đau: Trong trường hợp điển hình xuất hiện đau đột ngột, đau thành cơn dữ dội,  đau vùng hạ sườn phải lan lên vai phải hoặc sau lưng, đau làm người bệnh lăn lộn trên giường, cũng có thể đau làm người bệnh không dám thở mạnh. Trong trường hợp không điển hình, đau chỉ âm ỉ hoặc tức nặng ở hạ sườn phải, đau đôi khi ở vùng thượng vị và lan lên ngực.
Sốt: là do nhiễm trùng đường mật, nếu không có nhiễm trùng thì không sốt, có thể sốt cao kèm rét run nhưng cũng có khi sốt nhẹ, sốt thường đi kèm với đau, có khi sốt kéo dài.
Vàng da: Da và củng mạc mắt vàng do tắc mật, xuất hiện khi sỏi ở ống mật chủ, ống gan hoặc trong gan, tùy theo mức độ tắc mật mà vàng da nhẹ hay vàng đậm. Trong trường hợp chỉ có sỏi túi mật đơn thuần thì không gây vàng da.
Thăm khám lâm sàng: Gan to là triệu chứng thường gặp của sỏi mật, mức độ gan to phụ thuộc vào mức độ tắc mật, sỏi  túi mật  không gây gan to. Tắc mật do sỏi trong ống mật chủ có thể  xuất hiện túi mật to.
Để chẩn đoán đúng bệnh, dựa vào triệu chứng điển hình kinh điển là: đau, sốt và vàng da. Xét nghiệm có thể thấy tăng bạch cầu trong máu, bilirubin máu tăng khi có tắc mật. Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ rất có giá trị giúp chẩn đoán sỏi mật. Đối với sỏi túi mật, siêu âm là phương pháp rẻ tiền mà có giá  trị cao trong chẩn đoán.
Các biến chứng của sỏi mật
Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, sỏi mật gây nhiều biến chứng nặng có thể  dẫn tới tử vong như: áp-xe gan - đường mật, viêm đường mật, nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn đường mật, viêm phúc mạc do mật, viêm tụy cấp, chảy máu đường mật, viêm túi mật cấp tính, viêm túi mật mạn tính... Nếu ứ mật kéo dài sẽ dẫn tới xơ gan mật thứ phát.
Các biện pháp điều trị
Điều trị hỗ trợ bằng giảm đau và kháng sinh, nhưng chủ yếu vẫn phải  lấy sỏi mật.
Đối với sỏi túi mật
- Dùng thuốc giúp tan sỏi, áp dụng đối với sỏi cholesterol dưới 1,5cm, tốt nhất với sỏi dưới 5 mm, thời gian dùng kéo dài 6-24 tháng.
-  Tán sỏi bằng  bằng sóng  (shock-wave therapy), làm tan sỏi trực tiếp bằng hóa chất (direct solvent dissolution).
- Cắt túi mật qua nội soi: Dùng với sỏi to, gây đau nhiều hoặc gây viêm túi mật, đây là phương pháp  được dùng phổ biến hiện nay, rút ngắn thời gian nằm viện và  hồi phục sức khỏe nhanh.
-  Cắt túi mật  bằng mổ  phanh: Áp dụng  trong trường hợp mổ nội soi thất bại hoặc viêm mủ túi mật.
Đối với sỏi trong gan và  ống mật chủ
- Lấy sỏi qua nội soi ngược dòng cắt cơ oddi: áp dụng với sỏi ở ống mật chủ sỏi nhỏ dưới 1,5 cm, phương pháp này giúp tránh được phẫu thuật.
- Tán sỏi ngoài cơ thể bằng sóng.
-  Phẫu thuật để lấy sỏi.
Làm cách nào để phòng bệnh và biến chứng?
Ở  nước ta, nhiễm khuẩn đường mật vẫn còn là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hình thành sỏi mật, đặc biệt là nhiễm ký sinh trùng đường mật.
Chính vì vậy cần  ăn uống vệ sinh như ăn uống thức ăn đã nấu chín, tẩy giun định kỳ 6 tháng/lần, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, không nên ăn thức ăn đường phố, trẻ em hạn chế ăn quà vặt cổng trường. Đối với người có tiền sử giun chui ống mật cần tẩy giun định kỳ 2-3 lần trong  một năm.
Đối với người đã có sỏi mật cần được theo dõi và điều trị kịp thời để tránh những biến chứng nguy hiểm do sỏi mật gây ra.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét